Hãng Luật Anh Bằng. Quy định về khởi kiện khi bị sa thải trái pháp luật.

QUY ĐỊNH VỀ KHỞI KIỆN VỤ ÁN LAO ĐỘNG KHI BỊ SA THẢI TRÁI PHÁP LUẬT | HÃNG LUẬT ANH BẰNG

Sa thải là hình thức kỷ luật lao động nặng nhất nhưng rất cần thiết để bảo đảm trật tự, kỷ cương của doanh nghiệp. Xử lý kỷ luật sa thải là quyền của người lao động nhưng quyền này phải đặt trong một giới hạn nhất định. Pháp luật Việt Nam hiện hành đã có những quy định về căn cứ, thủ tục, nguyên tắc cũng như thời hiệu khi tiến hành xử lý kỷ luật sa thải người lao động, tránh sự lạm quyền của người sử dụng lao động. Các quy định này về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu của việc quản lý lao động trong nền kinh tế thị trường, vừa đảm bảo quyền quản lý lao động của người sử dụng lao động cũng như quyền lợi của người lao động. Các quy định về kỷ luật sa thải cũng đã phần nào phù hợp và tương đồng với các quy định của các nước cũng như điều kiện kinh tế – xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận rằng các quy định về kỷ luật sa thải hiện nay còn nhiều bất cập, mâu thuẫn và thiếu tính khả thi. Việc sa thải trái pháp luật hiện nay diễn ra phức tạp và ngày càng có xu hướng tăng lên và trong nhiều trường hợp rất khó khăn khi xác định một quyết định sa thải là trái pháp luật hay không còn. Chính vì thế, việc khắc phục những khó khăn, vướng mắc này là rất cần thiết, đảm bảo cho pháp luật có tính khả thi trên thực tế, hạn chế được tối đa các trường hợp sa thải trái pháp luật. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế trong thời kỳ mới.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay, sản xuất kinh doanh phát triển, quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động cũng có nhiều thay đổi. Người lao động làm việc, được hưởng lương và những chế độ nhất định đồng thời cũng phải tuân thủ những quy định về kỷ luật lao động được ghi nhận trong các văn bản pháp luật cũng như trong nội quy lao động của doanh nghiệp. Người sử dụng lao động có quyền quản lý lao động nhằm đảm bảo trật tự nề nếp của doanh nghiệp. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ lao động đã được quy định tương đối cụ thể nhưng các tranh chấp lao động vẫn xảy ra và có xu hướng gia tăng đặc biệt là tranh chấp về sa thải. Thực tiễn giải quyết các tranh chấp tại Tòa án cho thấy số lượng các vụ tranh chấp về kỷ luật sa thải chiếm một tỷ lệ tương đối lớn, diễn ra gay gắt và phức tạp. Trong đó có rất nhiều trường hợp là sa thải trái pháp luật, xâm phạm đến quyền lợi chính đáng của người lao động. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên có thể là do sự thiếu hiểu biết của người sử dụng lao động cũng có thể do sự cố tình vi phạm các quy định pháp luật về kỷ luật sa thải của họ. Vậy pháp luật đã bảo vệ người lao động như thế nào khi mà họ bị xâm phạm về quyền lợi của mình, đặc biệt là trong trường hợp bị sa thải trái pháp luật ?

Khởi kiện khi bị sa thải

Không phải cứ mắc lỗi là người lao động bị sa thải ngay và không phải chủ sử dụng lao động muốn sa thải lúc nào cũng được. Vấn đề sa thải người lao động chủ yếu được điều chỉnh bởi Bộ luật Lao động năm 2012 (BLLĐ) và Nghị định 05/2015/NĐ-CP.

Xử lý kỷ luật sa thải phải đảm bảo “06 đúng”.

Đúng các nguyên tắc xử lý kỷ luật (Điều 123 BLLĐ):

1. Việc xử lý kỷ luật lao động được quy định như sau:

a) Người sử dụng lao động phải chứng minh được lỗi của người lao động;

b) Phải có sự tham gia của tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở;

c) Người lao động phải có mặt và có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa; trường hợp là người dưới 18 tuổi thì phải có sự tham gia của cha, mẹ hoặc người đại diện theo pháp luật;

d) Việc xử lý kỷ luật lao động phải được lập thành biên bản.

2. Không được áp dụng nhiều hình thức xử lý kỷ luật lao động đối với một hành vi vi phạm kỷ luật lao động.

3. Khi một người lao động đồng thời có nhiều hành vi vi phạm kỷ luật lao động thì chỉ áp dụng hình thức kỷ luật cao nhất tương ứng với hành vi vi phạm nặng nhất.

4. Không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động đang trong thời gian sau đây:

a) Nghỉ ốm đau, điều dưỡng; nghỉ việc được sự đồng ý của người sử dụng lao động;

b) Đang bị tạm giữ, tạm giam;

c) Đang chờ kết quả của cơ quan có thẩm quyền điều tra xác minh và kết luận đối với hành vi vi phạm được quy định tại khoản 1 Điều 126 của Bộ luật này;

d) Lao động có thai, nghỉ thai sản; người lao động nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi

5. Không xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động vi phạm kỷ luật lao động trong khi mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình.

Đúng hành vi (Điều 126 BLLĐ, Điều 31 Nghị định 05/2015/NĐ-CP):

Điều 126. Áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải.

Hình thức xử lý kỷ luật sa thải được người sử dụng lao động áp dụng trong những trường hợp sau đây:

1. Người lao động có hành vi trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma tuý trong phạm vi nơi làm việc, tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người sử dụng lao động, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe doạ gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của người sử dụng lao động;

2. Người lao động bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương mà tái phạm trong thời gian chưa xoá kỷ luật hoặc bị xử lý kỷ luật cách chức mà tái phạm.

Tái phạm là trường hợp người lao động lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà chưa được xóa kỷ luật theo quy định tại Điều 127 của Bộ luật này;

3. Người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong 01 tháng hoặc 20 ngày cộng dồn trong 01 năm mà không có lý do chính đáng.

Các trường hợp được coi là có lý do chính đáng bao gồm: thiên tai, hoả hoạn, bản thân, thân nhân bị ốm có xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền và các trường hợp khác được quy định trong nội quy lao động.

Điều 31. Kỷ luật sa thải đối với người lao động tự ý bỏ việc.

1. Áp dụng hình thức xử lý kỷ luật sa thải đối với người lao động tự ý bỏ việc 05 ngày làm việc cộng dồn trong phạm vi 30 ngày kể từ ngày đầu tiên tự ý bỏ việc hoặc 20 ngày làm việc cộng đồn trong phạm vi 365 ngày kể từ ngày đầu tiên tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng.

2. Người lao động nghỉ việc có lý do chính đáng trong các trường hợp sau:

a) Do thiên tai, hỏa hoạn;

b) Bản thân, bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi, bố vợ, mẹ vợ, bố chồng, mẹ chồng, vợ hoặc chồng, con đẻ, con nuôi hợp pháp bị ốm có giấy xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật;

c) Các trường hợp khác được quy định trong nội quy lao động.

– Đúng trình tự, thủ tục (Điều 30 Nghị định 05/2015/NĐ-CP):

Trình tự xử lý kỷ luật lao động tại Điều 123 của Bộ luật Lao động được quy định như sau:

1. Người sử dụng lao động gửi thông báo bằng văn bản về việc tham dự cuộc họp xử lý kỷ luật lao động cho Ban chấp hành công đoàn cơ sở hoặc Ban chấp hành công đoàn cấp trên cơ sở nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở, người lao động, cha, mẹ hoặc người đại diện theo pháp luật của người lao động dưới 18 tuổi ít nhất 5 ngày làm việc trước khi tiến hành cuộc họp.

2. Cuộc họp xử lý kỷ luật lao động được tiến hành khi có mặt đầy đủ các thành phần tham dự được thông báo theo quy định tại Khoản 1 Điều này. Trường hợp người sử dụng lao động đã 03 lần thông báo bằng văn bản, mà một trong các thành phần tham dự không có mặt thì người sử dụng lao động tiến hành cuộc họp xử lý kỷ luật lao động, trừ trường hợp người lao động đang trong thời gian không được xử lý kỷ luật quy định tại Khoản 4 Điều 123 của Bộ luật Lao động.

3. Cuộc họp xử lý kỷ luật lao động phải được lập thành biên bản và được thông qua các thành viên tham dự trước khi kết thúc cuộc họp. Biên bản phải có đầy đủ chữ ký của các thành phần tham dự cuộc họp quy định tại Khoản 1 Điều này và người lập biên bản. Trường hợp một trong các thành phần đã tham dự cuộc họp mà không ký vào biên bản thì phải ghi rõ lý do.

4. Người giao kết hợp đồng lao động theo quy định tại các Điểm a, b, c và d Khoản 1 Điều 3 Nghị định này là người có thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động. Người được ủy quyền giao kết hợp đồng lao động chỉ có thẩm quyền xử lý kỷ luật lao động theo hình thức khiển trách.

5. Quyết định xử lý kỷ luật lao động phải được ban hành trong thời hạn của thời hiệu xử lý kỷ luật lao động hoặc thời hạn kéo dài thời hiệu xử lý kỷ luật lao động theo Điều 124 của Bộ luật Lao động, Quyết định xử lý kỷ luật lao động phải được gửi đến các thành phần tham dự phiên họp xử lý kỷ luật lao động.

– Đúng thẩm quyền xử lý (khoản 4 Điều 30 Nghị định 05/2015/NĐ-CP):

Người giao kết hợp đồng lao động theo quy định tại các Điểm a, b, c và d Khoản 1 Điều 3 Nghị định này là người có thẩm quyền ra quyết định xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động. Người được ủy quyền giao kết hợp đồng lao động chỉ có thẩm quyền xử lý kỷ luật lao động theo hình thức khiển trách.

– Đảm bảo thời hiệu xử lý kỷ luật (Điều 124 BLLĐ):

1. Thời hiệu xử lý kỷ luật lao động tối đa là 06 tháng, kể từ ngày xảy ra hành vi vi phạm; trường hợp hành vi vi phạm liên quan trực tiếp đến tài chính, tài sản, tiết lộ bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh của người sử dụng lao động thì thời hiệu xử lý kỷ luật lao động tối đa là 12 tháng.

2. Khi hết thời gian quy định tại các điểm a, b và c khoản 4 Điều 123, nếu còn thời hiệu để xử lý kỷ luật lao động thì người sử dụng lao động tiến hành xử lý kỷ luật lao động ngay, nếu hết thời hiệu thì được kéo dài thời hiệu để xử lý kỷ luật lao động nhưng tối đa không quá 60 ngày kể từ ngày hết thời gian nêu trên.

Khi hết thời gian quy định tại điểm d khoản 4 Điều 123, mà thời hiệu xử lý kỷ luật lao động đã hết thì được kéo dài thời hiệu xử lý kỷ luật lao động nhưng tối đa không quá 60 ngày kể từ ngày hết thời gian nêu trên.

3. Quyết định xử lý kỷ luật lao động phải được ban hành trong thời hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.

– Không vi phạm các trường hợp đặc biệt không được xử lý kỷ luật (khoản 4 Điều 123 BLLĐ, Điều 29 Nghị định 05/2015/NĐ-CP):

Điều 29. Xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi

1. Người sử dụng lao động không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động là cha đẻ, mẹ đẻ hoặc cha nuôi, mẹ nuôi hợp pháp đang nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi.

2. Khi hết thời gian nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi, mà thời hiệu xử lý kỷ luật đã hết thì được kéo dài thời hiệu xử lý kỷ luật lao động, nhưng tối đa không quá 60 ngày, kể từ ngày hết thời gian nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi.

Khoản 4, Điều 123 BLLĐ 2012:

Không được xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động đang trong thời gian sau đây:

a) Nghỉ ốm đau, điều dưỡng; nghỉ việc được sự đồng ý của người sử dụng lao động;

b) Đang bị tạm giữ, tạm giam;

c) Đang chờ kết quả của cơ quan có thẩm quyền điều tra xác minh và kết luận đối với hành vi vi phạm được quy định tại khoản 1 Điều 126 của Bộ luật này;

d) Lao động có thai, nghỉ thai sản; người lao động nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi.

Vi phạm dù chỉ 01 trong các yếu tố này đều được xác định là sa thải trái pháp luật. Do vậy, người lao động khi bị sa thải nên rà soát lại toàn bộ quá trình sa thải để xác nhận việc sa thải đã đúng quy định hay chưa.

Nếu phát hiện việc sa thải trái pháp luật:

Trong trường hợp này, người sử dụng lao động cần khắc phục vi phạm. Trường hợp không thể khắc phục, người sử dụng lao động cần hủy quyết định sa thải để làm lại hoặc hủy và xin lỗi cũng như bồi thường cho người lao động (nếu có thiệt hại).

Về phía người lao động, nếu như người lao động cảm thấy bị sa thải một cách vô lý và thấy rằng việc sa thải là trái với quy định pháp luật, thì người lao động có thể:

– Khiếu nại với người sử dụng lao động, đề nghị hủy quyết định sa thải.

– Nếu cách trên vẫn không giải quyết được, người lao động có thể nộp đơn lên Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội. Đây không phải là bước bắt buộc, pháp luật không quy định nhưng là bước nên làm, mục đích để thông báo cho cơ quan quản lý biết về vụ việc, từ đó có tác động nhất định đến người sử dụng lao động. Đơn nộp là đơn khiếu nại hoặc đơn đề nghị.

– Khởi kiện ra Tòa án cấp huyện nơi có trụ sở của người sử dụng lao động.

– Tố cáo ra cơ quan công an theo Điều 162 Bộ luật Hình sự năm 2015 về Tội buộc công chức, viên chức thôi việc hoặc sa thải người lao động trái pháp luật.

Với hành vi sa thải trái pháp luật đối với người lao động, tùy từng trường hợp, người vi phạm có thể bị thì bị phạt tiền từ 10 – 100 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm, thậm chí là phạt tiền từ 100 – 200 triệu đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Trân trọng.

Luật pháp - Hãng Luật Anh Bằng


HÃNG LUẬT ANH BẰNG | ANH BANG LAW. since 2007. VPGD: P. 905, Tòa nhà CT4-5, ngõ 6,Phố Dương Đình Nghệ, Phường Yên Hòa,Quận Cầu Giấy, Hà Nội * Dây nói: 0243.7.673.930 * 0243.7.675.594 * E : luatsuanhbang@gmail.com *  Hotline Giám đốc : 0913 092 912 – 0982 69 29 12 Luật sư Minh Bằng