| Bàn về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017.
Trên cơ sở Bộ luật Hình sự năm 1999, BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017 đã kế thừa, hoàn thiện, bổ sung những điểm mới các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn để đảm bảo việc áp dụng mang tính trừng phạt, răn đe; nhưng đồng thời mang tính giáo dục, cảm hóa đối với người phạm tội.
Ảnh minh họa: Nguồn Internet
1, Cơ sở, ý nghĩa của việc quy định các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Theo quy định tại Điều 50 BLHS năm 2015, thì khi quyết định hình phạt, Tòa án không chỉ căn cứ vào các quy định của BLHS, căn cứ vào tính chất và mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, mà còn phải căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS. Như vậy, BLHS đã quy định các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS là một trong những căn cứ cần thiết để Tòa án xem xét khi quyết định hình phạt TNHS.
Tình tiết giảm nhẹ TNHS là một trong những điều kiện cần thiết để đạt được mục đích của hình phạt, để hạn chế việc phải sử dụng các biện pháp ngăn chặn có tính nghiêm khắc cao. Tình tiết giảm nhẹ TNHS trong PLHS Việt Nam là một chế định có vai trò, ý nghĩa to lớn cả về mặt chính trị cũng như pháp lý. Việc quy định này là một chế định đã tạo cơ sở pháp lý để thực hiện phân hóa và cá thể hóa TNHS, áp dụng biện pháp xử lý khoan hồng về hình sự, bảo đảm một phần phán quyết công bằng và nhân đạo, tạo tiền đề quan trọng về tâm lý cho quá trình cảm hóa người phạm tội. Việc quy định tình tiết giảm nhẹ TNHS trong PLHS đã tạo cơ sở pháp lý để thực hiện phân hóa và cá thể hóa TNHS, áp dụng các biện pháp xử lý khoan hồng về hình sự, đảm bảo một phán quyết công bằng và nhân đạo, tạo tiền đề quan trọng về tâm lý cho quá trình cảm hóa người phạm tội.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có ý nghĩa rất quan trọng trong việc cá thể hoá hình phạt ở chỗ cho phép đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện, là một trong những cơ sở cho việc xác định mức độ TNHS đối với người phạm tội. Tình tiết tăng nặng TNHS định tội giúp xác định tội phạm đúng với bản chất của loại tội và tương ứng, sẽ có hình phạt thích đáng. Tình tiết tăng nặng TNHS định khung giúp xác định khung hình phạt đúng với tính chất và mức độ phạm tội của người phạm tội. Trong khung hình phạt này, tình tiết tăng nặng TNHS chung giúp xác định hình phạt cụ thể của tội phạm cụ thể. Tuy nhiên, từng tình tiết tăng TNHS có mức độ thay đổi TNHS theo hướng tăng lên của tội phạm khác nhau.
Trong quá trình áp dụng PLHS để giải quyết vụ án hình sự, đồng thời thể hiện rõ nội dung phương châm “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “trừng trị kết hợp với giáo dục” trong chính sách hình sự của Nhà nước ta, cũng như bảo đảm thực hiện tốt hơn nguyên tắc phân hóa TNHS, cá thể hóa và hình phạt đối với người phạm tội.
2, Bàn về tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
2.1, Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tình tiết tăng nặng TNHS là tình tiết làm cho mức độ nguy hiểm của trường hợp phạm tội cụ thể của một loại tội phạm tăng lên so với trường hợp bình thường và do đó được coi là căn cứ để tăng nặng TNHS đối với trường hợp phạm tội đó.
Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự có thể được phân thành các tình tiết ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và các tình tiết phản ánh khả năng giáo dục, cải tạo của người phạm tội.
Thứ nhất, các tình tiết ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Các hành vi phạm tội với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ từ 70 tuổi trở lên (Điểm i khoản 1 Điều 52 BLHS) là những người được pháp luật bảo vệ do khả năng tự vệ hạn chế hoặc không có khả năng tự vệ. Do đó, trường hợp phạm tội này có tình nguy hiểm cao cho xã hội so với phạm tội bình thường.
Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác (Điểm k, khoản 1 Điều 52 BLHS).
Phạm tội có tổ chức (Điểm a khoản 1 Điều 52 BLHS). Đây là trường hợp đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những chủ thể cùng thực hiện tội phạm.
Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội (Điểm o, khoản 1 Điều 52 BLHS). Đây là trường hợp người phạm tội dụ dỗ, thúc đẩy người dưới 18 tuổi thực hiện phạm tội.
Dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, tàn ác để phạm tội; dùng thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội (Điểm m,n, khoản 1 Điều 52 BLHS). Thủ phạm dùng những mánh khóe, cách thức gian dối, thủ đoạn tàn ác thực hiện hành vi phạm tội; những hành vi có khả năng gây thiệt hại cho nhiều người như ném lựu đạn dùng súng bắn vào đám đông.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội (Điểm c khoản 1 Điều 52 BLHS). Người phạm tội sử dụng chức vụ quyền hạn của mình để thực hiện tội phạm.
Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội (Điểm 1 khoản 1 Điều 52 BLHS).
Hành vi phạm tội có tính chất nghiêm trọng và cản trở sự khắc phục khó khăn mà còn làm tăng thêm khó khăn đang có của xã hội như biểu hiện của sự bội bạc, phản trắc, hèn nhát, ích kỉ…
Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng (Điểm e khoản 1 Điều 52 BLHS). Đây là trường hợp quyết tâm thực hiện hành vi phạm tội, cố gắng khắc phục mọi trở ngại để thực hiện bằng được phạm tội.
Phạm tội 02 lần trở lên (Điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS). Trước đó người phạm tội đã phạm tội này ít nhất là một lần và chưa bị xét xử.
Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm ( Điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS). Người phạm tội bị coi là tái phạm khi là người đã bị kết án và đang có án tích và người đang có án tích đã phạm tội mới và tội phạm đó cố tình hoặc tội phạm đó là tội phạm cố ý hoặc tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
Thứ hai, các tình tiết phản ánh khả năng giáo dục, cải tạo của người phạm tội.
Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh che dấu tội phạm (điểm p khoản 2 Điều 52 BLHS). Đây là trường hợp sau khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội đã có những hành vi gian dối, quỷ quyệt hoặc hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực đối với người khác nhằm trốn tránh hoặc che giấu tội phạm.
2.2, Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự .
Tình tiết giảm nhẹ TNHS là tình tiết trong một vụ án cụ thể nó sẽ làm giảm TNHS của người phạm tội trong một khung hình phạt.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy đinh cụ thể tại Điều 51 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017 gồm 22 tình tiết. Có thể phân loại thành các tình tiết ảnh hưởng ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết phản ánh khả năng giáo dục, cải tạo của người phạm tội và các tình tiết phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội.
Thứ nhất, các tình tiết ảnh hưởng ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội.
Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm (Điểm a, khoản 1 Điều 51 BLHS). Đây là trường hợp người phạm tội đã thực hiện phạm tội và nếu không có gì ngăn cản thì tác hại của tội phạm sẽ xảy ra hoặc xảy ra lớn hơn nhưng người phạm tội đã ngăn chặn không để tác hại xảy ra hoặc hạn chế được tác hại của tội phạm.
Tình tiết giảm nhẹ TNHS này phụ thuộc vào thái độ chủ quan của người phạm tội.
Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả (Điểm b, khoản 1 Điều 51 BLHS). Người phạm tội tự nguyện khắc phục hậu quả phạm tội, bồi thường về vật chất, thể chất, tinh thần. Hành vi thể hiện sự ăn năn hối lỗi của người phạm tội.
Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn (Điểm h, khoản 1 Điều 51 BLHS). Trường hợp này có nguyên nhân là nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội. Do hậu quả tội phạm quyết định mức độ nguy hiểm nên trường hợp này coi như trường hợp chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn nên được giảm TNHS.
Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết (Điểm c, khoản 1 Điều 51 BLHS). Đây là các trường hợp phạm tội có động cơ phòng vệ, do người phòng vệ vượt quá giới hạn luật cho phép.
Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điểm đ, khoản 1 Điều 51 BLHS). Người phạm tội trong trường hợp này có động cơ bắt giữ người phạm tội nhưng khi thực hiện họ dùng vũ lực, gây thiệt hại cho người bị bắt giữ vượt quá mức cần thiết.
Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra tội (Điểm e, khoản 1 Điều 51 BLHS). Người phạm tội bị hạn chế về khả năng kiểm soát và khả năng điều khiển hành vi do tác động của hành vi trái pháp luật của nạn nhân. Mức độ giảm nhẹ tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi tác động.
Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra (Điểm g, khoản 1 Điều 51 BLHS). Hành vi phạm tội bị chi phối bởi hoàn cảnh, tình tiết giảm nhẹ phụ thuộc vào mức độ khó khăn và mức độ cố gắng khắc phục.
Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức (Điểm k, khoản 1 Điều 51 BLHS). Do bị de dọa cưỡng bức nên người người phạm tội bị buộc thực hiện hành vi phạm tội không hoàn toàn tự lựa chọn mà bị buộc thực hiện tội phạm theo ý chí của người có hành vi đe dọa cưỡng bức.
Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra (Điểm l, khoản 1 Điều 51 BLHS). Đây là tình tiết mới được quy định trong BLHS 2015. Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phụ thuộc vào mức độ hạn chế khả năng nhận thức hành vi của người phạm tội.
Phạm tội do lạc hậu (Điểm m, khoản 1 Điều 51 BLHS). Trong trường hợp này cần căn cứ mức độ lạc hậu của người phạm tội trong điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương nơi người phạm tội sinh sống.
Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình (Điểm q, khoản 1 Điều 51 BLHS). Mức độ giảm nhẹ TNHS phụ thuộc vào mức độ hạn chế khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội.
Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng (Điểm i, khoản 1 Điều 51 BLHS). Đây là loại tội phạm ít nghiêm trọng hoặc là tội phạm nghiêm trọng nhưng phải thuộc trường hợp ít nghiệm trọng.
Thứ hai, các tình tiết phản ánh khả năng giáo dục, cải tạo của người phạm tội.
Người phạm tội tự thú (Điểm r, khoản 1 Điều 51 BLHS). Đây là trường hợp người phạm tội chưa bị phát hiện nhưng chủ thể tự đến cơ quan có thẩm quyền khai báo về hành vi phạm tội.
Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải (Điểm s, khoản 1 Điều 51 BLHS). Người phạm tội hối cải về hành vi phạm tội và mong muốn sửa chữa lỗi lầm.
Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án (Điểm t, khoản 1 Điều 51 BLHS). Người phạm tội tích cực cung cấp chứng cứ, tài liệu và làm theo yêu cầu của cơ quan có trách nhiệm để giải quyết vụ án.
Người phạm tội đã lập công chuộc tội (Điểm u, khoản 1 Điều 51 BLHS). Người phạm tội có thành tích đột xuất, tương đối trong chống bão lũ, cứu hỏa…thể hiện sự hối cải.
Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác (Điểm v, khoản 1 Điều 51 BLHS). Người phạm tội được tặng thưởng huân chương, huy chương, bằng lao động sáng tạo, bằng khen của Chính phủ hoặc có sáng chế, phát minh…
Thứ ba, các tình tiết phản ánh hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội.
(quy định tại các điểm n, p, x khoản 1 Điều 51).
Người phạm tội là phụ nữ có thai; người phạm tội là người đủ từ 70 tuổi trở nên; là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha ,mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ. Việc quy định các tình tiết giảm nhẹ này xuất phát từ chính sách nhân đạo nhưng có phần do sức khỏe của người phụ nữ khi mang thai, đặc điểm tâm- sinh lý của người già và nhân đạo với người khuyết tật nặng, thân nhân của liệt sĩ có công kháng chiến bảo vệ tổ quốc.
3, Đánh giá việc quy định các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hiện hành so với BLHS năm 1999.
Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung 2017 có 15 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì đến 9/15 điểm quy định trong định tội, định khung hình phạt. So với Bộ luật hình sự năm 1999 là 12/14 tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự là dấu hiệu định tội, định khung trong các tội danh cụ thể. Như vậy, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự trong BLHS 2015 sửa đổi bổ sung 2017 đã được quy định chặt chẽ và cụ thể hơn, ít các khoản mang tính “tổ hợp” và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ít lặp lại trong các Điều, khoản định tội hoặc định khung hình phạt so với Bộ luật hình sự năm 1999.
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định 18 tình tiết giảm nhẹ TNHS thì đến BLHS năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 tăng thêm 4 tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ TNHS có tính chất chung và chỉ được áp dụng đối với tội phạm cụ thể khi tình tiết đó chưa quy định là dấu hiệu cũng như là dấu hiệu định hình khung hình phạt của tội phạm đó.
Bài viết có giá trị tham khảo.
Chúng tôi, hãng luật hàng đầu tại Hà nội với nhiều năm kinh nghiệm hoạt động tư vấn, cung ứng các dịch vụ pháp lý, tháo gỡ các vướng mắc của khách hàng trong các vụ án hình sự, tìm ra sự thật của mọi vụ án. HÃNG LUẬT ANH BẰNG luôn cẩn trọng, nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng nhu cầu của khách hàng để đưa ra các tham vấn, phương án, giải pháp tối ưu bảo vệ, bào chữa cho Thân chủ. Đường dây nóng Luật sư 24/7: 0913 092 912 – 0982 69 29 12.
Trân trọng.
HÃNG LUẬT ANH BẰNG | ANH BANG LAW. Since 2007
VPGD: P.905, tòa nhà CT4.5,ngõ 6, Dương Đình Nghệ, Cầu Giấy, Hà Nội
Dây nói: 0243.7.673.930 – 0243.7.675.594 – Fax: 0243.7.675.594
Hotline : 0913 092 912 – 0982 69 29 12. Luật sư Minh Bằng
Web: anhbanglaw.com – luatsucovandoanhnghiep.vn – hangluatanhbang.vn
Email: luatsuanhbang@gmail.com
Bài viết khác